Phiên bản lắp ráp tại Việt Nam có sự khác biệt nhiều so với bản nhập khẩu không? Hãy cùng tìm câu trả lời khi trải nghiệm hỗn hợp liên tục Swift hơn 300km để kiểm nghiệm điều này.
Thiết kế
Mẫu xe Suzuki Swift xuất hiện tại Việt Nam năm 2012, ban đầu chưa gây được sự chú ý nhiều, nhưng dần đã chứng minh được phẩm chất và khả năng của một chiếc xe đô thị và còn hơn thế nữa. Nếu như mang một vài mẫu compact sedan hay hatchback ra so sánh về khả năng lái thì Swift vượt hẳn cảm giác sau vô-lăng.
Sau thời gian thử nghiệm thị trường bằng dòng xe Swift nhập và tìm được sự phản hồi tích cực, Việt Nam Suzuki đã mạnh dạn đầu tư dây chuyền lắp ráp dòng xe con được xem là chiến lược của mình tại thị trường Việt Nam. Phiên bản Suzuki Swift lắp ráp tại Việt Nam có tỉ lệ nội địa hóa khoảng 10% nhưng trên thực tế tỉ lệ nội địa này rất thấp và không hề đụng chạm đến tính năng ổn định và cảm giác lái rất tốt như phiên bản nhập.
Trong nỗ lực giảm giá xe cho người tiêu dùng, đã có một vài khác biệt giữa bản nhập và lắp ráp trong nước như: Hệ thống túi khí giảm chỉ còn 02 chiếc cho hàng ghế trước, hệ thống phanh đĩa của bánh sau được thay bằng phanh tang trống, vô-lăng hầu như được thay mới nhìn đơn điệu và không tích hợp nút điều chỉnh hệ thống giải trí khi di chuyển. Bù lại phiên bản nội địa tích hợp thêm gương gập điện có đèn báo rẽ trên lưng gương. Một số ý kiến cho rằng Suzuki Swift phiên bản nội địa mất đi sự an toàn do giảm số lượng túi khí của xe, thực tế đánh giá một chiếc xe an toàn không hẳn dựa vào số lượng túi khí, mà là sự ổn định vận hành của khung gầm và hệ thống lái khi chạy ở tốc độ cao, kèm theo kỹ thuật thiết kế thân xe phân tán lực va chạm để giảm thiểu tối đa sự chấn thương.
Ai cũng biết sự ưu việt của hệ thống phanh đĩa khi xe chạy ở tốc độ cao, tuy nhiên với một chiếc xe đô thị nặng chỉ 990kg và điều kiện tốc độ lưu thông bị hạn chế ở đô thị, ngay cả trên cao tốc cũng chỉ giới hạn 120km/h thì việc trang bị phanh tang trống cho bánh sau xem ra không ảnh hưởng nhiều cho người sử dụng mà lại còn dễ bảo trì với chi phí thấp.
Toàn thể khoang nội thất vẫn là những chất liệu của chiếc xe nhập với ghế nỉ, ốp nhựa hầu hết ở các mặt như táp-lô, cửa và trần xe, nhưng nhìn rất hài hòa và hiện đại không hề rẻ tiền. Cụm đồng hồ đặc biệt ấn tượng với lối thiết kế nền đen chi tiết bạc chứ không phải trắng làm cho các chi tiết hiển thị dễ nhìn và nổi bật, chỉ tiếc một chút khi cụm đồng hồ nhỏ hiển thị thông tin tổng hợp đơn sắc màu vàng như: quãng đường đã đi, nhiệt độ ngoài trời, thời gian… không ăn nhập gì với màu đèn trắng của hai đồng hồ tròn so với bản nhập.
Xe trang bị khóa cửa remote, khởi động bằng nút Star/Stop, cửa chỉnh điện trước và sau, khóa cửa trung tâm. Dàn âm thanh 04 loa kèm theo CD/MP3 giao diện USB cũng đủ giải trí trên quãng đường xa. Không thể đòi hỏi một chỗ ngồi rộng ở hàng ghế sau, tuy nhiên với đa số tạng người Việt Nam thì nó vẫn đáp ứng tốt, kèm theo khoang chứa đồ phía sau có thể linh động thay đổi rộng hơn bằng cách gập ghế sau với một thao tác dịch dây đai phía trên thành tựa lưng.
Vận hành
Với khối động cơ 1.4L công suất 93 hp, sử dụng hộp số tự động 4 cấp cho một chiếc xe đô thị là một chọn lựa hợp lý, nó sẽ không đuối sức nếu như phải di chuyển ở những quãng đường trên xa lộ hay cao tốc. Khác với những lần thử xe trước đây, tôi lái xe lòng vòng trong các con đường và hẻm nhỏ, thậm chí cả đường đất để xem khả năng xoay trở khi gặp xe đi ngược chiều trong hẻm nhỏ ở những góc cua, tiện thể cố gắng mở hết thính giác khi tắt nhạc trong xe để cảm nhận có gì đó khác thường không, nhất là dàn nhựa ốp nội thất của xe vì dù sao vẫn có sự nghi kỵ giữa một chiếc lắp ráp và một chiếc nhập có cùng một chất lượng quản lý và lắp ráp hay không?
Trong đường nội thị với tình trạng xe đông đúc vào sáng thứ hai đầu tuần là một trải nghiệm, xe chắc chắn phải di chuyển chậm chạp nhưng động cơ 1.4L đủ mạnh để người lái chủ yếu điều khiển phanh chân là chính để nhích từng chút qua đám đông xe máy mà vẫn cảm thấy dễ chịu. Tuy nhiên bán kính vòng quay xe của Swift lớn hơn một số đối thủ như Yaris 4.7m, Fiesta 5.1m nên cũng hơi thua một chút ít trong những góc quay đầu hẹp. Thiết kế góc chữ A không dốc nên hạn chế được tối đa điểm mù, quan sát tốt, chiếc xe chạy thử đã được gắn thêm vè che mưa ngay góc chữ A nên hạn chế một chút tầm quan sát, người sử dụng nên cân nhắc có cần thiết gắn hay không?
Trên đường cao tốc khi vận hành ở tốc độ 90-100km/h, Swift khá đầm, ổn định và độ nặng của vô –lăng vừa phải, cách âm trung bình, chỉ là hộp số tự động 4 cấp nhưng cũng rất mượt mà không giật cục. Ở dải tốc độ từ 120-135km/h, thân xe lẫn vô lăng vẫn còn giữa được sự ổn định, không rung lắc, và nếu thực hiện nhấp nhả ga bạn cũng có thể lắng nghe và cảm nhận được một chút hương vị thể thao của ống xả, hệ thống phanh đáp ứng tốt khi thực hiện giảm tốc. Dù chỉ được xếp vào nhóm động cơ công suất nhỏ nhưng Swift thực hiện chuyển làn nhanh nhẹ và tự tin vượt mặt xe cùng chiều trong giải tốc độ từ 80-100km/h khá dễ dàng trên cao tốc.
Có thể với bề mặt đường cao tốc rất tốt vừa làm khiến cho cảm giác chiếc xe quá tốt? Tôi quyết định tiếp tục thử chiếc xe trên xa lộ đông đúc và có nhiều đoạn đường rất xấu, điều nhận thấy là tạp âm từ mặt đường dội lên là không thể tránh khỏi nhưng chấp nhận được, hệ thống giảm xóc có thể được xem là làm việc khá tốt dù là hệ treo đơn giản phổ thông. Những đoạn cua dọc đường Trần Phú tuy không gắt nhưng cũng đủ để thử khả năng vào và thoát cua ở tốc độ khoảng 60-70km/h là quá ngọt ngào đối với Swift trong khi chiếc xe vẫn thể hiện được phẩm chất bám đường và đầm chắc.
Kết luận
Năm ngoái tôi đã có dịp chạy thử chiếc Swift phiên bản nhập, và giờ đây khi trải nghiệm chiếc Swift phiên bản lắp ráp tại Việt Nam hầu như không có sự khác biệt trong cảm giác lái của xe, vẫn là sự linh hoạt của một chiếc xe độ thị 1.4L, không gian nội thất vẫn như vậy. Duy chỉ có một điểm làm tôi không hài lòng là vô-lăng mới khá đơn điệu và rẻ tiền trong chất liệu bề mặt lẫn hình thức.